Đường lối CM của Đảng CSVN C3
ĐỀ CƯƠNG
Câu 3: Vai
trò của đồng chí Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc)
ra đi tìm đường cứu nước. Người tìm hiểu kĩ các cuộc cách mạng trên thế giới
như CM Mỹ, CM Anh, CM Pháp. Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu
cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. Người rút ra kết luận: “Trong thế giới bây giờ
chỉ có Cách mạng Nga là thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được
hưởng hạnh phúc tự do, bình đẳng thật sự”.
Vào tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản
sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
Lenin đăng lên trên báo Nhân Đạo. Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920),
Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng Sản và tham gia
thành lập Đảng Cộng Sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặc trong cuộc đời hoạt
động cách mạng của Người và Người tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn: “Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng
vô sản”.
Sau đó Người đã chuẩn bị các điều kiện để
tiến tới thành lập Đảng CSVN:
a.
Chuẩn
bị tư tưởng chính trị:
-
Tại
Pháp: từ năm 1921-1923, thông qua các bài viết trên các sách, báo và các bài
phát biểu tại các diễn đàn ở Pháp như các báo: Nhân Đạo (L’humanité) 1920, Người
Cùng Khổ (Le Paria) 1921, báo đời sống công nhân với nội dung tố cáo tội ác của
thực dân đế quốc, khơi dậy lòng yêu nước của nhân dân ta. Thức tỉnh lòng tự tôn
dân tộc.
-
Tại
Nga: từ tháng 6/1923 đến cuối năm 1924, Người tham dự Đại hội Quốc Tế nông dân,
Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng Sản. Người viết nhiều bài tham luận và nhiều bài
đăng trên các báo Nga. Đây là dịp Người đi sâu nghiên cứu kinh nghiệm CM Tháng
Mười, từng bước hình thành tư tưởng giải phóng dân tộc.
-
Tại
Trung Quốc: từ năm 1924-1927, Người tham gia sáng lập tờ báo Thanh Niên (1925)
và xuất bản các tác phẩm: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925). Năm 1927, Người
đã trình bày hệ thống quan điểm lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa trong tác phẩm Đường Kách Mệnh:
·
Tính
chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam: là cách mạng giải phóng dân tộc mở đường
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ mật thiết với
nhau;
· Lực lượng: cách mạng là sự nghiệp quần chúng, "là việc chung của dân chúng chứ không phải việc của một hai người", do đó phải đoàn kết toàn dân. Nhưng cái cốt của nó là công-nông và phải luôn ghi nhớ rằng công-nông là người chủ cách mệnh, công-nông là gốc cách mệnh;
·
Muốn
thắng lợi thì cách mạng phải có một Đảng lãnh đạo: Đảng muốn vững thì phải có
chủ nghĩa làm cốt, chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là
chủ nghĩa Lenin;
·
Về
vấn đề đoàn kết quốc tế của cách mạng Việt Nam: Nguyễn Ái Quốc xác định “Cách mệnh
An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế
giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”.
·
Về
phương châm cách mạng: Người nhấn mạnh đến việc phải giác ngộ và tổ chức quần
chúng cách mạng, phải làm cho quần chúng hiểu rõ mục đích cách mạng, biết đồng
tâm hiệp lực để đánh đổ giai cấp áp bức mình, có như thế mới bảo đảm thành công
cho cuộc khởi nghĩa với sự nổi dậy của toàn dân…
·
Tác
phẩm Đường Kách Mệnh đã đề cập những vấn đề cơ bản của một cương lĩnh chính trị,
chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng Sản ở Việt Nam.
b.
Chuẩn
bị tổ chức:
-
Thành
lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
Cuối năm 1924, Người về đến Quảng Châu, tìm gặp
các thanh niên Việt Nam đang hoạt động cách mạng. Nguyễn Ái Quốc thành lập các tổ chức quan trọng:
Thành lập Hội Liên Hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông. Đặc biệt (6/1925), Người
thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, tổ chức tiền thân của Đảng CSVN
sau này. Từ 1925-1927, hội đã đào tạo được hàng trăm thanh niên yêu nước VN, giảng
viên chính là đ/c Nguyễn Ái Quốc, các bài giảng có nội dung thức tỉnh lòng yêu
nước, đường lối đấu tranh theo cách mạng vô sản, phương pháp tuyên truyền chính
trị, văn hóa, quân sự. Số học viên của VNTNCMĐ Hội đạt kết quả xuất sắc được gửi
sang Liên Xô học đại học Phương Đông, số còn lại trở về nước thực hiện chủ
trương “vô sản hóa”, rèn luyện lập trường giai cấp công nhân, đưa hội viên bám
chắc vào nhà máy. Số hội viên ngày càng tăng, năm 1928 có 300 người, đến năm
1929 đã có 1700 người.
-
Sự
ra đời của 3 tổ chức Cộng sản ở 3 miền
Từ năm 1928 trở đi nhờ có hoạt động của các hội
viên VNTNCMH mà phong trào công nhân phát triển từ tự phát lên tự giác. Phong
trào đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của đội tiên phong cách mạng, đó là Đảng Cộng
Sản. Các hội viên TNCM Hội ở 3 miền đã sớm nắm bắt được nhu cầu này, nhanh
chóng cho thành lập các Đảng Cộng Sản: Đông Dương Cộng Sản Đảng ra đời ở Bắc Kì
(6/1929), An Nam Cộng Sản Đảng ra đời ở Nam Kì (9/1929), Đông Dương Cộng Sản
Liên Đoàn ra đời ở Trung Kì (1/1930).
Việc ra đời của 3 tổ chức trên đã cho thấy sự
phát triển lớn mạnh của phong trào công nhân và đáp ứng nguyện vọng của g/c
công nhân Việt Nam song sự tồn tại một lúc 3 tổ chức cộng sản đã dẫn tới sự
phân tán, chia rẽ về tổ chức, giảm uy tín cán bộ, gây hoang mang trong quần
chúng. Một đòi hỏi cấp bách là phải thống nhất 3 tổ chức thành một. Đó chính là
nhiệm vụ quan trọng của những người cộng sản.